Ngân hàng thương mại cần làm gì cho đợt chứng khoán hoá trở nên hấp dẫn?

Câu hỏi

Lĩnh vực ngân hàng: Để làm cho đợt chứng khoán hoá (Securitization) này trở nên hấp dẫn, theo các bạn, Ngân hàng thương mại – với tư cách là người khởi phát trong đợt chứng khoán hoá này – cần phải làm gì?

Chứng khoán hóa Securitization

 

trong tiến trình 0
thangthi 3 năm 2021-06-26T17:01:41+07:00 0 Câu trả lời 358 lượt xem 3

Câu trả lời ( 2 )

  1. This answer is edited.

    Chứng khoán hóa (Securitization)

    Chứng khoán hóa là một quá trình tài chính cơ cấu, tại đó các tài sản thế chấp khác nhau của những người đi vay được tập hợp và đóng gói rồi được dùng làm đảm bảo để phát hành các trái phiếu (gọi chung là trái phiếu đảm bảo bằng tài sản). Tiền từ người mua các chứng khoán này sẽ được chuyển đến các tổ chức tài chính cho vay thế chấp để các tổ chức này cho người đem thế chấp tài sản vay tiền. Chứng khoán hóa chính là quá trình đưa các tài sản thế chấp sang thị trường thứ cấp nơi mà chúng có thể trao đi đổi lại. Nó đã biến các tài sản kém thanh khoản thành những chứng khoán thanh khoản cao.

    Chứng khoán hóa Securitization

    Vai trò của chứng khoán hóa

    Có bốn loại chủ thể kinh tế chủ yếu liên quan đến quá trình chứng khoán hóa, đó là:

    1) Người thế chấp và đi vay,

    2) Tổ chức tập hợp và đóng gói tài sản thế chấp rồi phát hành chứng khoán,

    3) Nhà đầu tư mua bán chứng khoán,

    4) Tổ chức tín dụng cho vay.

    Với bốn loại chủ thể kinh tế thay vì hai loại là người thế chấp – đi vay và tổ chức tín dụng cho vay, rủi ro được chuyển từ tổ chức tài chính sang nhà đầu tư trái phiếu đảm bảo bằng tài sản. Việc gộp nhiều loại tài sản thế chấp khác nhau vào một tập hợp cũng là một hình thức phân tán rủi ro. Vì thế, đã có cách gọi các trung gian tài chính tham gia vào chứng khoán hóa là những người tạo ra và phân tán rủi ro. Hai loại chủ thể kinh tế trung gian giữa người đi vay và tổ chức tín dụng cho vay đóng vai trò trung gian-môi giới, nên giúp cho người vay và tổ chức tín dụng dễ “gặp nhau” hơn. Ngoài ra, chứng khoán hóa còn giúp giảm chi phí huy động tài chính. Dù người đi vay có mức xếp hạng tín nhiệm không cao nhưng với tài sản đem thế chấp tốt thì chứng khoán đảm bảo bằng tài sản này vẫn có thể được xếp hạng tín nhiệm cao và dễ bán. Chính vì thế, chứng khoán hóa tạo thuận lợi cho việc vay và cho vay có thế chấp.

    Lịch sử

    Chứng khoán hóa xuất hiện đầu tiên ở Hoa Kỳ vào năm 1970. Fannie Mae và Freddie Mac – hai công ty được chính phủ Mỹ bảo trợ – là những công ty đầu tiên và cho đến nay vẫn luôn là những công ty tích cực nhất trong hoạt động chứng khoán hóa. Hồi thập niên 1970, hai công ty này đã phát minh ra chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (hay MBS). Sau đó, các loại chứng khoán đảm bảo bằng tài sản khác ra đời, như giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (hay CDO) và các thứ tương tự CDO. Nếu như MBS đóng gói các tài sản thế chấp thực thụ khác nhau lại, thì CDO, xuất hiện từ năm 1987 và chỉ thực sự phổ biến từ cuối thập niên 1990, thậm chí lại còn đóng gói MBS và một số tài sản khác. Nghiên cứu của Mason and Rosner (2007) cho biết vào năm 2005, có đến 81% tài sản đảm bảo cho CDO là từ MBS, tức là vào khoảng 200 tỷ dollar Mỹ. Do đó có quan điểm cho rằng CDO là sản phẩm tái chứng khoán hóa các loại chứng khoán khác. Thứ giấy nợ đảm bảo bằng tài sản này có thể có nhiều loại là sản phẩm chứng khoán hóa của việc đóng gói các loại tài sản có mức độ rủi ro khác nhau, và hướng tới các đối tượng nhà đầu tư khác nhau. Loại CDO từ tài sản có mức độ rủi ro thấp nhất có thể được các tổ chức đánh giá tín nhiệm xếp hạng cao nhất. Cùng với sự ra đời và phát triển của CDO là sự xuất hiện của những tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho nhà đầu tư CDO và của những tổ chức liên kết cung cấp hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng (hay CDS).

    Nhiều tổ chức tín dụng của Hoa Kỳ đã lập ra các công ty con, gọi là các bộ phận mục đích đặc biệt (hay SPV) để mua bán MBS và CDO. Điều này cho phép họ đặt MBS và CDO ngoài bảng cân đối tài sản, và vì thế giảm nguy cơ bị các cơ quan giám sát tài chính nhắc nhở. Citigroup là tổ chức đã phát minh ra cái gọi là công cụ đầu tư kết cấu (hay SIV) vào năm 1988 và các tổ chức khác đã theo gương cho ra đời hàng loạt SIV. Các SIV này được xem là hệ thống ngân hàng trong bóng tối. Họ đi vay bằng cách phát hành chứng khoán ngắn hạn lãi suất thấp rồi cho vay lại bằng cách mua các chứng khoán dài hạn, nhất là mua MBS và CDO, qua đó ăn chênh lệch. Tuy nhiên, khi lãi suất của chứng khoán dài hạn lại thấp hơn lãi suất chứng khoán ngắn hạn thì các SIV này bị lỗ. Theo Moody (2008), tại thời điểm tháng 7 năm 2008, giá trị tài sản của các SIV ước lên đến 400 tỷ dollar.

    (Nguồn: Wikipedia)

    ————–

    Tham khảo thêm về chứng khoán hóa trên website: https://corporatefinanceinstitute.com/resources/knowledge/trading-investing/securitization/

    0
    2021-07-08T20:54:44+07:00

    Chứng khoán hóa nợ xấu

    Sau nhiều năm, chứng khoán hóa nợ xấu vẫn chưa sẵn sàng được thực hiện do thiếu hành lang pháp lý. Trong khi chờ hành lang pháp lý cho chứng khoán hóa nợ xấu, thì sàn giao dịch nợ VAMC sắp ra đời.

    Sàn giao dịch nợ ra trước

    Theo giới chuyên gia, sàn giao dịch nợ VAMC ra đời tới đây là bước đi cần thiết để áp dụng các giải pháp xử lý nợ cao hơn.

    Sàn giao dịch nợ VAMC sẽ có hai mảng hoạt động chính. Thứ nhất là hoạt động môi giới mua bán các khoản nợ xấu, tức sàn sẽ làm trung gian mua bán nợ xấu. Hoạt động này không bao gồm hoạt động bán đấu giá.

    Thứ hai là tư vấn mua bán nợ xấu. Theo đó, Sàn giao dịch nợ VAMC sẽ là đầu mối tập hợp thông tin về các khoản nợ xấu mà các tổ chức tín dụng (TCTD) mong muốn đưa lên giao dịch tại sàn.

    Nguồn hàng cung cấp cho sàn giao dịch nợ gồm 2 nguồn chính. Nguồn đầu tiên là các khoản nợ do VAMC mua theo giá thị trường. Nguồn hàng này ước tính khoảng 3.000 tỷ đồng và sẽ được đưa lên lên giao dịch ngay sau khi sàn giao dịch nợ ra đời. Nguồn thứ hai là nguồn nợ xấu mua bằng trái phiếu đặc biệt. Trước khi giao dịch khoản nợ xấu này, phải có sự thống nhất giữa VAMC và các TCTD về phương thức xử lý nợ. Nếu khoản nợ xấu nào được thỏa thuận bán cho bên thứ ba thì sẽ được niêm yết trên sàn giao dịch nợ…

    Bao giờ “chứng khoán hóa nợ xấu”?

    Còn nhớ vào năm 2013, TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính-Tiền tệ quốc gia khẳng định, chưa thể thực hiện chứng khoán hóa nợ xấu do chưa làm tốt định giá, phân loại nợ, thị trường chứng khoán (TTCK) còn nhỏ, chưa đa dạng nhà đầu tư.

    Trong khi TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia ngân hàng cũng từng chia sẻ với DĐDN, dù Nghị quyết 42/QH14 của Quốc hội đã đề cập đến sàn giao dịch nợ xấu, nhưng chưa có quy định về chứng khoán hóa nợ xấu để tạo hành lang pháp lý triển khai công cụ này.

    So với năm 2013, đến nay thị trường mua bán nợ đã có hoạt động tốt hơn. Quy mô TTCK từ chỗ tương đương 31% GDP, nay đã đạt 90,4% GDP. Các sản phẩm tài chính phái sinh đã có, đi cùng là sự thu hút quỹ đầu tư, nhà đầu tư tổ chức, cá nhân… Nhưng vấn đề mấu chốt lúc này vẫn là hành lang pháp lý: Chưa có quy định chính thức nào “bật đèn” cho hoạt động chứng khoán hóa nợ xấu.

    Trong khi đó, đại dịch COVID-19 có thể sẽ mang đến những hệ lụy mới đối với hệ thống ngân hàng. Đặc biệt theo ông Phan Lê Thành Long, Giám đốc Viện Kế toán Quản trị Công chứng Úc tại Việt Nam, ngân hàng đang tăng trưởng lợi nhuận mạnh mẽ ở hôm nay và tạm đẩy rủi ro về tương lai.

    Rủi ro đó chính là nợ xấu với cơ chế dồn lại, được xử lý ngắt đoạn trong 3 năm. Liệu đây có là quãng thời gian đủ đề bàn lại về chứng khoán hóa nợ xấu?

    (Nguồn: diendandoanhnghiep.vn/chung-khoan-hoa-no-xau-200894.html)

Để lại câu trả lời