Thể dục lớp 7: Bật nhảy và chạy ngắn gồm mấy giai đoạn?

Câu hỏi

– Bài thể dục ở lớp 7 gồm mấy động tác? Kể tên các động tác 1, 2, 3, 4, 5?
– Chạy ngắn gồm mấy giai đoạn? Kể tên từng giai đoạn.
– Bật nhảy gồm mấy giai đoạn? Kể tên từng giai đoạn.
– Trong bóng chuyền có mấy cách chuyền bóng? Kể tên.

trong tiến trình 0
1000000000 4 năm 2020-06-16T18:59:12+07:00 3 Câu trả lời 9981 lượt xem 5

Câu trả lời ( 3 )

    1
    2020-06-16T19:09:24+07:00

    Trong bộ môn bóng chuyền cơ bản:

    Có 2 cách chuyền bóng cơ bản:

    1) Kỹ thuật chuyền bóng cao tay cơ bản bằng hai tay.
    2) Kỹ thuật chuyền bóng thấp tay bằng hai tay cơ bản.

    Có 2 kỹ thuật phát bóng cơ bản:

    1) Kỹ thuật phát bóng thấp tay trước mặt.
    2) Kỹ thuật phát bóng cao tay trước mặt.

    6
    2020-06-16T19:18:54+07:00

    Cách nhảy bật xa tại chỗ bao gồm 4 giai đoạn chính:

    Giai đoạn 1: Tư thế chuẩn bị

    Đầu tiên bạn đứng thẳng, hai bàn chân song song cách nhau một khoảng 5 – 10 cm. Mũi 2 bàn chân đặt sát mép vạch xuất phát.

    Trong tư thế chuẩn bị, bàn cần chú ý hạ thấp phần trọng tâm đồng thời đẩy tay về phía sau. Người có thể hơi ngả về phía trước.

    Giai đoạn 2: Động tác lấy đà

    Để lấy đà, bạn đưa hai tay lên cao và hướng ra phía trước, 2 bàn chân kiễng cao và dưới thân người. Việc lấy đà sẽ giúp bạn tạo lực để bật cao và bật xa về phía trước.

    Để thực hiện cách nhảy bật xa tại chỗ là bạn cần kiễng nhẹ chân để trọng tâm dồn vào phần mũi chân. Phần cơ thể hơi ngả về phía trước.

    Giai đoạn 3: Bật nhảy

    Ở bước bật xa, cơ thể bạn sẽ giống như một chiếc lò xo đang chịu một lực nén rất mạnh. Để bật xa bạn di chuyển hai tay và hai chân về phía sau. Phần ngực ưỡn căng hết mức.

    Bạn đưa 2 tay lên cao sau đó hạ xuống thấp và hướng ra sau. Hai đầu khối khuỵu xuống để hạ thấp trọng tâm. Phần thân trên ngả về phía trước.

    Sử dụng lực của đùi kết hợp với sức bật 2 bàn chân để đạp mạnh xuống đất nhằm bật người lên khỏi mặt đất và hướng về phía trước. Hai tay đánh ra phía trước và hướng lên cao.

    Tiếp theo, bạn co chân lại tay để đẩy người về phía trước chuẩn bị cho bước tiếp đất.

    Giai đoạn 4: Tiếp đất

    Bước tiếp đất cần thực hiện cẩn trọng và đúng kỹ thuật để đảm bảo sự an toàn, hạn chế việc chấn thương. Để tiếp đất, bạn cần đứng vững bằng hai chân, hai tay hơi đẩy ra phía sau để giữ thăng bằng cho toàn bộ cơ thể.

    3
    2020-06-16T19:25:38+07:00

    Các giai đoạn trong Chạy ngắn:

    Kĩ thuật chạy cự li ngắn được chia thành 4 giai đoạn: Xuất phát, Chạy lao, Chạy giữa quãng và Về đích.

    Xuất phát

    Trong chạy cự li ngắn cần sử dụng kĩ thuật xuất phát thấp với bàn đạp để tận dụng lực đạp sau giúp cơ thể xuất phát nhanh.

    Có 3 lệnh trong xuất phát chạy ngắn: “Vào chỗ!”, “Sẵn sàng!”, “Chạy!”. Kĩ thuật ở giai đoạn xuất phát gồm các kĩ thuật phải thực hiện sau mỗi lệnh.

    + Sau lệnh “Vào chỗ!”, người chạy đứng thẳng trước bàn đạp của mình, ngồi xuống, chống hai tay trước vạch xuất phát; lần lượt đặt chân thuận vào bàn đạp trước, rồi chân kia vào bàn đạp sau, hai mũi bàn chân đều phải chạm mặt đường chạy (để không phạm quy). Hai chân nên nhún trên bàn đạp kiểm tra có vững không, để chỉnh sửa kịp thời. Tiếp đó hạ đầu gối chân phía sau xuống đường chạy, thu hai tay về sau vạch xuất phát, chống trên các ngón tay như đo gang. Khoảng cách giữa hai bàn tay rộng bằng vai. Kết thúc, cơ thể ở tư thế quỳ trên gối chân phía sau (đùi chân đó vuông góc với mặt đường chạy), lưng thẳng tự nhiên, đầu thẳng, mắt nhìn phía trước, cách vạch xuất phát 40 – 50cm; trọng tâm cơ thể dồn đều trên hai tay, bàn chân trước và đầu gối chân sau. Ở tư thế đó, người chạy chú ý nghe lệnh tiếp theo.

    + Sau lệnh “Sẵn sàng!”, người chạy từ từ chuyển trọng tâm về trước, đồng thời từ từ nâng mông lên bằng hoặc cao hơn vai (từ 10cm trở lên, tùy khả năng mỗi người). Hai vai nhô về trước vạch xuất phát 5 – 10cm để cho trọng tâm cơ thể dồn về phía trước, mắt nhìn phía trước cách vạch xuất phát 40 – 50cm. Cơ thể có 4 điểm chống trên mặt đường chạy là hai bàn tay và hai bàn chân. Giữ nguyên tư thế đó để sẵn sàng xuất phát khi nghe lệnh.

    + Sau lệnh “Chạy!” (hoặc tiếng súng lệnh), xuất phát được bắt đầu bằng đạp mạnh hai chân. Đẩy hai tay rời mặt đường chạy, đồng thời hai tay đánh ngược chiều với chân (vừa để giữ thăng bằng, vừa để hỗ trợ lực đạp sau của hai chân). Chân sau không đạp hết, mà mau chóng đưa về trước để hoàn thành bước chạy thứ nhất. Chân phía trước phải đạp duỗi thẳng hết các khớp rồi mới rời khỏi bàn đạp, đưa nhanh về trước để thực hiện và hoàn thành bước chạy thứ hai.

    Chạy lao

    Khi hai tay rời khỏi mặt đường là thời điểm bắt đầu chạy lao. Trong chạy lao, điểm đặt chân trước luôn ở sau điểm dọi của trọng tâm cơ thể (khoảng cách đó giảm dần sau mỗi bước chạy) rồi tiến lên ngang và sau thì vượt lên trước. Cùng với việc tăng tốc độ chạy, độ ngã về trước của thân trên giảm dần, mức độ dùng sức trong đánh tay cũng giảm dần. Trong những bước đầu, hai chân đặt trên đường chạy hơi tách rộng rồi giảm dần cho tới khi kết thúc chạy lao mới ổn định gần thành một đường thẳng.

    Tốc độ chạy lao được tăng lên chủ yếu là nhờ tăng độ dài bước chạy. Bước sau nên dài hơn bước trước ½ bàn chân và sau 9 – 11 bước thì ổn định.

    Chạy giữa quãng

    Tiếp sau chạy lao là chạy giữa quãng. Nhiệm vụ chủ yếu của chạy giữa quãng là duy trì tốc độ cao đã đạt được trong chạy lao. Trong giai đoạn này, kĩ thuật chạy khá ổn định. Kĩ thuật của chạy giữa quãng có một số đặt điểm sau:

    Bàn chân đặt xuống mặt đường chạy có hoãn xung bằng cách đặt từ nửa trước của bàn chân. Điểm đặt chân thường ở phía trước của điểm dọi trọng tâm của cơ thể 30 – 40cm tùy theo tốc độ chạy. Tiếp đó chân chống trước chuyển sang chống thẳng đứng rồi thành đạp sau. Đồng thời với động tác đạp sau là động tác đưa chân lăng về trước. Đùi chân lăng được nâng đủ cao – gần song song với mặt đất. Tốc độ chạy chủ yếu phụ thuộc vào hiệu quả đạp sau, nên động tác đó cần thực hiện chủ động (nhanh, mạnh và đúng hướng). Để hỗ trợ cho đạp sau, chân lăng cũng phải đưa nhanh và đúng hướng. Đùi chân lăng về trước, chứ không phải là lên cao, để không giảm hiệu quả của lực đạp sau.

    Ngay khi chân chống trước chạm mặt đường, vai và hông phải chủ động chuyển về trước (giúp cơ thể chuyển nhanh từ chống trước sang đạp sau). Chuyển động của vai so với hông cũng sole như của tay so với chân. Thân trên ngã về trước khoảng 50.

    Khi đánh tay, hai tay gập ở khuỷu, đánh sole và phù hợp với nhịp điệu của hai chân. Hai vai thả lỏng, đánh về trước hơi khép vào trong, đánh ra sau hơi mở (nhưng không phải là đánh sang hai bên) để giữ thăng bằng cho cơ thể. Hai bàn tay nắm hờ (hoặc duỗi các ngón tay).

    Khi chạy trên toàn cự li cần thở bình thường, chủ động nhưng không làm rối loạn kĩ thuật và nhịp điệu chạy.

    Về đích

    Khi cách đích khoảng 15 – 20m cần tập trung hết sức lực để duy trì tốc độ. Cố tăng độ ngả người về trước để tận dụng hiệu quả đạp sau. Người chạy hoàn thành cự li 100m khi có một bộ phận của thân trên (trừ đầu và tay) chạm vào mặt phẳng thẳng đứng, chứa vạch đích. Bởi vậy, ở bước chạy cuối cùng, người chạy phải chủ động gập thân trên về trước để cham ngực vào dây đích (mặt phẳng đích) – đây là cách đánh đích bằng ngực. Cũng có thể kết hợp vừa gập thân trên về trước vừa xoay thân để một vai chạm đích – đây là cách đánh đích bằng vai. Không nhảy về đích, vì sẽ chậm – sau khi nhảy lên, cơ thể chuyển động (bay về trước) chỉ theo quán tính, nên tốc độ chậm dần đều. Sau khi về đích cần chạy tiếp vài bước theo quán tính và giữ thăng bằng để khỏi ngã, không dừng đột ngột và không va chạm với người cùng về đích…

    – Cách sử dụng bàn đạp: Tùy đặc điểm và trình độ người tập để bố trí bàn đạp cho phù hợp. Thông thường có 3 cách bố trí bàn đạp. HS THPT nên sử dụng cách phổ thông:

    + Cách phổ thông: Bàn đạp trước đặt cách vạch xuất phát 1 – 1,5 độ dài bàn chân và bàn đạp sau cách bàn đạp trước một khoảng bằng độ dài một cẳng chân (gần hai bàn chân) của người chạy.

    + Cách xa: Các bàn đạp được đặt xa vạch xuất phát hơn: Bàn đạp trước đặt cách vạch xuất phát gần hai bàn chân và bàn đạp sau cách bàn đạp trước một bàn chân hoặc gần hơn. Cách này thường phù hợp với người cao, sức mạnh của chân và tay bình thường.

    + Cách gần: Cả hai bàn đạp được đặt gần vạch xuất phát hơn: Bàn đạp trước đặt cách vạch xuất phát gần hai bàn chân (hoặc gần hơn) và bàn đạp sau cách bàn đạp trước chỉ còn 1 – 1,5 bàn chân. Bằng cách này, bằng cách này tận dụng được sức mạnh của cả hai chân khi xuất phát nên xuất phát ra nhanh, nhưng thường phù hợp hơn với những người thấp, có chân tay khỏe. Việc hai chân rời khỏi bàn đạp gần như đồng thời sẽ khó khi chuyển qua dùng sức đạp sau luân phiên từng chân (ở trình độ kém) sẽ có hiện tượng bị dừng sau bước rời bàn đạp.

    Dù theo cách nào, trục dọc của hai bàn đạp cũng phải song song với trục dọc của đường chạy.

    Khoảng cách giữa hai bàn đạp theo chiều ngang thường là 10 – 15cm, sao cho hoạt động của hai đùi không cản trở nhau (do hai bàn đạp gần nhau quá), cũng không mất bình thường (hướng sang hai bên do hai bàn đạp xa nhau quá). Bàn đạp đặt trước dùng cho chân thuận (chân khỏe hơn).

    Góc độ của mặt bàn đạp: góc giữa mặt bàn đạp trước và mặt đường chạy phái sau là 45 – 50°; bàn đạp sau là 60 – 80°. Đối với học sinh có thể lực kém thì nên sử dụng bàn đạp xa vạch xuất phát, có góc độ nhỏ hơn.

    (Tác giả: Hồng Sâm)

Để lại câu trả lời